Over-confidence

Over-confidence – quá tự tin: là một thành kiến ​​được thiết lập tốt, trong đó niềm tin chủ quan của một người đối với bản án của họ đáng tin cậy hơn mức độ chính xác khách quan của những phán đoán đó, đặc biệt là khi sự tự tin tương đối cao. Sự tự tin quá mức là một ví dụ của việc tính sai lệch các xác suất chủ quan. Trong suốt quá trình nghiên cứu văn học, sự tự tin đã được định nghĩa theo ba cách khác nhau: (1) đánh giá quá cao hiệu suất thực tế của một người; (2) over-placement của một người thực hiện liên quan đến người khác; và (3) quá mức trong việc thể hiện sự chắc chắn không chính xác về tính chính xác của niềm tin.

Trong Marketing, sự quá tự tin (over-confidence) nơi các nhà quản trị thương hiệu cho rằng nhãn hiệu mình đã có đủ tiếng tăm mà không chịu chăm chút bảo vệ nó là một nguyên nhân của thất bại trong việc buôn bán.

Cách phổ biến nhất mà sự tự tin đã được nghiên cứu là hỏi mọi người về những niềm tin của họ về những niềm tin cụ thể họ nắm giữ hay trả lời họ như thế nào. Dữ liệu cho thấy sự tự tin có hệ thống vượt quá độ chính xác, ngụ ý rằng mọi người chắc chắn rằng họ là chính xác hơn họ xứng đáng được. Nếu sự tự tin của con người đã được hiệu chuẩn hoàn hảo, các phán đoán với 100% tự tin sẽ đúng 100% thời gian, 90% tự tin chính xác 90% thời gian, và như vậy cho các mức độ tin tưởng khác. Trái lại, kết quả chính là độ tin cậy vượt quá độ chính xác miễn là đối tượng trả lời các câu hỏi khó về một chủ đề không quen thuộc. Ví dụ, trong một nhiệm vụ chính tả, các đối tượng đã được chính xác khoảng 80% thời gian, trong khi họ khẳng định là 100% chắc chắn. Nói cách khác, tỷ lệ lỗi là 20% khi đối tượng dự kiến ​​sẽ là 0%. Trong một loạt các đối tượng phản hồi đúng hoặc sai đối với các tuyên bố kiến ​​thức tổng quát, họ đã quá tự tin ở tất cả các cấp. Khi họ 100% chắc chắn trả lời câu hỏi, họ đã sai 20% thời gian.